Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2020 - 2021
Ngày nhập : 07/12/2020 09:08
 
Trên cơ sở phân tích thực trạng nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế năm 2019 và những tháng đầu năm 2020, khi nền kinh tế đối mặt với nhiều tác động xấu với những diễn biến khó lường từ chiến tranh thương mại, đến dịch Covid -19… bài viết đưa ra những nhận định, đánh giá triển vọng kinh tế Việt Nam của cả năm 2020 và năm 2021.

Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2019 và 6 tháng đầu năm 2020

Tăng trưởng kinh tế

Kinh tế Việt Nam từ năm 2019 đến nay diễn ra trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới tăng trưởng chậm. Căng thẳng thương mại giữa Mỹ - Trung và vấn đề địa chính trị làm gia tăng tính bất ổn của hệ thống thương mại toàn cầu; thêm vào đó là tác động của đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng không nhỏ tới niềm tin kinh doanh, quyết định đầu tư và thương mại toàn cầu. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2019 tiếp tục đà tăng trưởng khá, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và vượt kế hoạch.

Cụ thể, GDP tăng 6,8%, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,01%, đóng góp 4,6% vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,90%, đóng góp 50,4%; khu vực dịch vụ tăng 7,3%, đóng góp 45%, sản xuất công nghiệp dần phục hồi, ổn định thị trường và duy trì được tốc độ tăng trưởng. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức chưa thể khắc phục được do một số ngành, sản phẩm tăng trưởng thấp hoặc giảm, thiếu tính cạnh tranh, nguồn lao động chưa đảm bảo, giá cả nguyên nhiên liệu, tỷ giá hối đoái, giá vàng biến động khó lường, không thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu… đã ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển sản xuất công nghiệp.
 
Bước sang năm 2020, GDP quý II/2020 tăng 0,36% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng thấp nhất của quý II so với các năm trong giai đoạn 2014–2020, nguyên nhân là trong quý này chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của dịch Covid-19 khi Chính phủ chỉ đạo thực hiện mạnh mẽ các giải pháp nhằm giãn cách xã hội, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,72%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 1,38%; khu vực dịch vụ giảm 1,76%. Theo đó, tiêu dùng cuối cùng tăng 0,04% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 2,30%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 8,45%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 9,67%.

Giá trị các ngành sản xuất dịch vụ tăng 7,3%, cao hơn nhiều so với thủy sản - nông lâm và xếp sau lĩnh vực công nghiệp - xây dựng. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa - dịch vụ tăng trên 8,1% so với năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 82,10 tỷ USD, tăng 17,7%, chiếm 31,2% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 181,35 tỷ USD, tăng 4,2%, chiếm 68,8% (tỷ trọng giảm 2,5 điểm phần trăm so với năm trước).

Thành quả này có được là nhờ vào việc đẩy mạnh triển khai thực hiện các hiệp định thương mại nhằm tìm kiếm thị trường, thúc đẩy sản xuất trong nước, nỗ lực phấn đấu cao nhất để hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra, các doanh nghiệp đã tích cực củng cố và phát triển thị trường, ổn định đơn hàng, đa dạng hóa sản phẩm… nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu, cùng với các hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại được chú trọng, nên kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đã đạt mức tăng trưởng ổn định.

Tuy nhiên, tính đến hết quý II/2020 dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp trên thế giới, đặc biệt tại các nước đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam đã ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất, nhập khẩu của nhiều mặt hàng. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tháng 6/2020 ước tính đạt 41,5 tỷ USD, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 238,4 tỷ USD, giảm 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 121,2 tỷ USD, giảm 1,1%; nhập khẩu đạt 117,2 tỷ USD, giảm 3%. Trong 6 tháng đầu năm xuất siêu đạt mức 4 tỷ USD…

Đầu tư

Tổng vốn đầu tư phát triển trong năm 2019 đạt trên 202.184,39 tỷ đồng. Tốc độ tăng vốn đầu tư cao và nhanh qua các năm một mặt thể hiện quan hệ tích lũy - tiêu dùng đã có sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, nhiều dự án đầu tư lớn của các khu vực kinh tế được đưa vào hoạt động, góp phần phát triển thị trường dịch vụ. Hoạt động thu hút vốn đầu tư hỗ trợ chính thức (ODA) đạt kết quả khá cùng với hoạt động hợp tác quốc tế và đối ngoại được chú trọng, tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác và tìm cơ hội đầu tư tại Việt Nam.

Tính đến hết quý II/2020, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành ước tính đạt 82.090,3 nghìn tỷ đồng, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước và bằng 33% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 273,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 32,2% tổng vốn và tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 375,9 nghìn tỷ đồng, bằng 44,2% và tăng 4,6%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 200,9 nghìn tỷ đồng, bằng 23,6% và giảm 3,8%.

Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 15,7 tỷ USD, giảm 15,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, có 1.418 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt gần 8,5 tỷ USD, giảm 17,7% về số dự án và tăng 13,8% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 526 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 3,7 tỷ USD, tăng 26,8%.

Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2021

Tính đến hết quý II/2020, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 2,71% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ các năm 2014-2020, đóng góp 0,93 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Giá trị sản xuất nông - lâm - thuỷ sản ước tăng 1,72%; khu vực dịch vụ giảm 1,76% so với cùng kỳ 2019. Hoạt động thương mại khá sôi động, giá cả thị trường tuy có biến động nhưng mức độ biến động không cao, chỉ số giá tiêu dùng quý II/2020, CPI giảm 1,87% so với quý I/2020 và tăng 2,83% so với cùng kỳ năm 2019. Lũy kế đến nay, Việt Nam có 1.418 dự án FDI, tổng vốn đầu tư đạt 15,7 tỷ USD. Hoạt động thu hút nguồn vốn đầu tư hỗ trợ chính thức (ODA) đạt kết quả khá.

Trong số 61 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2020, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất với 4,3 tỷ USD, chiếm 51,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Trung Quốc là 950,1 triệu USD, chiếm 11,3%; Đài Loan là 775,2 triệu USD, chiếm 9,2%; Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ) 770,8 triệu USD, chiếm 9,1%; Hàn Quốc là 544,8 triệu USD, chiếm 6,5%; Nhật Bản là 323,6 triệu USD, chiếm 3,8%; Quần đảo Virgin thuộc Anh là 137,5 triệu USD, chiếm 1,6%; Thái Lan là 134,6 triệu USD, chiếm 1,6%.

Kết quả này nhờ vào việc Việt Nam đã tập trung thúc đẩy phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng để tiếp tục nâng cao tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu GDP, đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, thực hiện tốt công tác quản lý đầu tư, quản lý qui hoạch, đô thị, gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ tài nguyên môi trường và phát triển bền vững; quan tâm giải quyết an sinh xã hội. Tuy nhiên, triển vọng kinh tế Việt Nam trong những tháng cuối năm 2020 và năm 2021 còn phụ thuộc vào hai nhóm yếu tố chính là tình hình kinh tế thế giới và sức mạnh nội tại của nền kinh tế trong nước.

Sức mạnh nội tại của nền kinh tế trong nước là cột mốc cơ bản đánh dấu sự thay đổi căn bản trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Bởi vì, Việt Nam là đất nước có dân số trẻ đang phát triển, tốc độ đô thị hóa cao, có nhiều sự thay đổi lớn như về cấu trúc nhân sự, về tư duy, tầm nhìn chiến lược hay cách tiếp cận và đã đuổi kịp với xu hướng biến động của tình hình kinh tế thế giới… Hy vọng rằng, kinh tế Việt Nam trong thời gian còn lại của năm 2020 và năm 2021 sẽ bừng sáng, tăng trưởng ổn định và vững chắc.

(Nguồn: Tạp chí Tài chính)
 
 
 

NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN CÔNG THƯƠNG

Giải Pháp Tài Chính Thông Minh